Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

CHIẾN TRANH - CHÍN KHÚC TƯỞNG NIỆM. Khú thứ Nhất: Biên Thuỳ




LỜI THƯA
Trang Blog dannuoc.blogspot.com này được tạo ra chỉ nhằm mục đích duy nhất: đăng toàn bộ 9 khúc của CHIẾN TRANH - CHÍN KHÚC TƯỞNG NIỆM và những gì có liên quan, trong trường hợp cụ thể này, Blog mang dung mạo và có ý nghĩa tương tự một “sách mạng”. Tôi liều lĩnh tự trình bày Blog, chắc chắn có nhiều khiếm khuyết, rất mong được góp ý nghiêm khắc, chỉ bảo tận tình

Tôi viết CHIẾN TRANH - CHÍN KHÚC TƯỞNG NIỆM trong khoảng một năm (cuối năm 2007 đến cuối năm 2008), bản thảo hoàn chỉnh được xin xuất bản ở 4 nhà xuất bản (theo thứ tự): Nhà Xuất bản T, Nhà Xuất bản VHSG,Nhà Xuất bản VN (đều ở Sài Gòn), và một nhà xuất bản ở Trung ương (NXB. LĐ). Cả 4 nhà xuất bản này đều trả lại bản thảo với giải thích có cùng “ý nghĩa”: không thể in, không dám in, in thì…chết. Cuối cùng, tôi được Chi nhánh NXB Văn
Học tại Sài Gòn đồng ý cấp giấy phép với điều kiện “phải sửa”.

Trân trọng Cảm tạ Đại tá Nhà văn Nguyễn Tiến Hải, Người đã khuyến khích 
và tạo mọi thuận lợi để tôi tham gia Trại Sáng tác do Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân tổ chức bên hồ Đại Lải, Trân trọng Cảm tạ Nhà văn Triệu Xuân, Trưởng Chi nhánh phía Nam của Nhà Xuất bản Văn học tại Sài Gòn, Trân trọng Cảm ơn một số Người Bạn đã cho gần 10 triệu VNĐ, (với yêu cầu “bắt buộc”: không bao giờ được nêu tên) đủ để in sách.
_______________________________________________________________________



Khúc thứ Nhất 
BIÊN THUỲ

“…ta muốn sống như thời man sơ ấy
bẫy thỏ săn nai hái lượm trái cây
không ai thành tỉ phú không ai phải ăn mày
mọi người đi cùng loại xe tuần lộc lôi chó kéo

không cần Đảng A Đảng B
Đảng C càng không cần
tổng thống
              thủ tướng
                           chẳng để làm gì
không nghị sĩ nghị viên
                            - nghị viện thành vô nghĩa…”


CHIẾN TRANH - CHÍN KHÚC TƯỞNG NIỆM. Khúc thứ Hai: Mẹ nhằn hạt na Cha nhai dập mía

Khúc thứ Hai 
MẸ NHẰN HẠT NA, CHA NHAI DẬP MÍA

“…những người làm Cha Mẹ 
có con ra trận có con tử trận
chết mòn chết dở bao lần
trước khi chết thật…” 

01 
Anh không rơi từ ngọn cây
em không lẫy ra từ ruộng nẻ   
như hai kẻ hành hương ngụp lặn nước thiêng sông Hằng
nuốt giọt cam lồ uống rượu tàn nhang
giật mình bừng tỉnh

CHIẾN TRANH - CHÍN KHÚC TƯỞNG NIỆM. Khúc thứ Ba: ...Đàn ông và Đàn bà

Khúc thứ Ba 
HOÀ BÌNH CHIẾN TRANH - ĐÀN ÔNG VÀ ĐÀN BÀ

“…Thập kỉ Sáu mươi
Thập kỉ Bảy mươi

Đêm dài như Tháng
Tháng bằng cả Năm

Đàn Bà sợ tuần rụng trứng 
Đàn ông bức tử tinh trùng..."



NGƯỜI ĐÀN BÀ CÓ CHỒNG TRONG NHÀ

Sống với nhau nửa tháng chồng vào Vệ quốc
xa cách chín năm trời vợ ngót ba mươi
chiến thắng Điện Biên anh xuất ngũ về quê
người lính nào chẳng muốn “nghỉ phép” suốt đời như thế

CHIẾN TRANH - CHÍN KHÚC TƯỞNG NIỆM. Khúc thứ Tư: Tiếng Việt

Khúc thứ Tư 
TIẾNG VIỆT

“…chữ Việt thời chúng tôi sống
én bay ngược gió cá lội ngược sông

tiếng Việt thời chúng ta sống
hoạ mi hót trong bão dông…”

1
Học tiếng rơi cành cây
âm thanh chùm quả rụng
nước chảy mây bay vượn hót chim gù
tiếng sóng thét gào biển bão
rừng tre cọt kẹt “ma đưa”…

CHIẾN TRANH - CHÍN KHÚC TƯỞNG NIỆM. Khúc thứ Năm: Hình như ai cũng khổ

Khúc thứ Năm
HÌNH NHƯ AI CŨNG KHỔ

“…Người Việt chẳng sợ ai 
chỉ sợ lẫn nhau
và sợ chính mình !...”

NHẰN VỎ TRẤU NUỐT HẠT GẠO

Đã mấy triệu năm
dòng điện ngủ vùi trong lưu tốc sông Xêsan sông Đà
dầu ứ đọng trong các địa tầng
dưới thềm lục địa
chủ Pháp cũ giám đốc Việt mới vét sạch sành sanh
những vỉa than lộ thiên Hồng Gai Cẩm Phả
chỉ còn than béo than non ăn ngầm
                                               thăm thẳm đất sâu

CHIẾN TRANH - CHÍN KHÚC TƯỞNG NIỆM. Khúc thứ Sáu: Chẳng nỡ trách giòng sông


Khúc thứ Sáu 
CHẲNG NỠ TRÁCH DÒNG SÔNG

“…Đằng Giang tự cổ huyết do hồng”
năm Nhâm Tý - Bảy hai (1972)
máu binh sĩ Sài Gòn trộn máu Giải phóng quân
đỏ ngầu nước sông Thạch Hãn
ướt sũng gạch vụn Cổ Thành!”


Trịnh  Nguyễn phân tranh
sông Gianh ngót hai trăm năm chia đôi đất nước

CHIẾN TRANH - CHÍN KHÚC TƯỞNG NIỆM. Khúc thứ Bảy: Chết trẻ

Khúc thứ Bảy 
CHẾT TRẺ

“…chết nhiều khi không hiểu tại sao
chảy hết máu hay vì đói khát
chết mà không biết chết lúc nào
cây rừng lớn dần dâng võng lên cao
thịt rữa nát - võng dù còn bền chắc
võng rung cùng cây võng chao theo gió

xương đen - nắng nỏ
cốt trắng - gội mưa…”


LINH HỒN

Trẻ nhà quê
tóc thả trái đào, áo nâu quần cộc
ra đường cái quan túm vạt áo cha
lớn ngộc còn nhay ti mẹ
mẹ đi cấy sớm mẹ về chợ khuya lại bú tí bà
vú bầu vú mướp không còn mùi sữa

CHIẾN TRANH - CHÍN KHÚC TƯỞNG NIỆM. Khúc thứ Tám: Cuộc chiến không đổ máu


Khúc thứ Tám
CUỘC CHIẾN KHÔNG ĐỔ MÁU

“Thép đã tôi Thế đấy” cháy sém
rách nát “Thánh kinh”
lính Đại học Xây dựng
chia động từ tiếng Nga
trên giấy gói lương khô “Bảy lẻ hai” (702)
lính Sài Gòn rớt tú tài
viết từ vựng Anh ngữ khắp bao thuốc “Quân Tiếp Vụ”

CHIẾN TRANH - CHÍN KHÚC TƯỞNG NIỆM. Khúc thứ Chín: Ngũ cung

Khúc thứ Chín
NGŨ CUNG

“...Mua mớ cá lẹp
bán mủng khoai lang
mẹ ta chị ta đắn đo
                            mặc cả
                           trả giá
thêm bớt từng xu từng hào
không muốn mua rẻ
chẳng nỡ bán cao

huống gì
              Cái Giá ấy
                              tính bằng
                                            Xương
                                                     Máu…”

Thứ Ba, 22 tháng 1, 2013

MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT

http://nhavantphcm.com.vn/the-gioi-sach/chien-tranh-chin-khuc-tuong-niem.html

NVTPHCM- “Tôi rơi nhiều nước mắt khi viết trường ca này”- tâm sự của nhà thơ Nguyễn Thái Sơn về trường ca Chiến tranh- chín khúc tưởng niệm (NXB Văn Học 2009). Đây là một trong những tập thơ gây được nhiều chú ý của dư luận thời gian qua. Trang Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh xin giới thiệu đến bạn đọc một số đánh giá, nhận định về tập trường ca “nhiều nước mắt”.

Nhà văn NGUYỄN THANH TÚ

“… Người ra trận thì như vậy còn người ở hậu phương cũng phải hy sinh, hy sinh hạnh phúc, tuổi trẻ cùng những khát khao của bản năng. Nhìn ở góc độ này Chiến tranh chín khúc tưởng niệm của Nguyễn Thái Sơn khai thác sâu vào miền tâm tưởng đầy day dứt âu lo khắc khoải và cũng đầy đam mê của những người phụ nữ: Những người đàn bà khao khát tình yêu/ da thịt có gai có lửa/ ong bay trong dạ/ kiến nhằn trong xương/ lan toả xạ hương/ rạo rực tê mê những vùng nhạy cảm/ cơ thể dao động run rẩy/ căng mặt trống/ bỏng dây đàn/ gánh nước nửa đêm tưới đầm vườn nhãn/ xay vài thúng thóc/ giã nửa nong ngô… Chúng tôi cho rằng nói ra những điều ấy ở ngày hôm nay là một sự cần thiết, để thế hệ trẻ biết rằng cha anh họ đã phải trả giá tuổi trẻ, máu xương như vậy mới có ngày hoà bình yên ổn hôm nay, để họ suy ngẫm mà sống sao cho xứng đáng với lịch sử. Trên hành trình đổi mới của trường ca sau 1986 thì điểm thay đổi căn bản là ở sự trả lại những gì vốn có của cấu trúc hình tượng con người trong chiến tranh…”

Nhà thơ NGUYỄN VIỆT CHIẾN

“... Gần 200 trang thơ với những cảm nhận xúc động và ám ảnh như thế, nhà thơ đã cùng chúng ta nhìn lại cả một chặng đường trận mạc gian lao của dân tộc khi lịch sử đất nước qua mấy ngàn năm trường tồn còn hằn dấu những trận chiến dựng nước và giữ nước. Nguyễn Thái Sơn đã mở một dòng chảy xuyên suốt qua chín khúc tưởng niệm về chiến tranh với cái nhìn đầy nhân bản, và như bản giao hưởng trầm hùng và đau thương về những người lính đã hy sinh…”

Nhà thơ DƯƠNG PHƯỢNG TOẠI

“… Nhà thơ Nguyễn Thái Sơn đã viết về chiến tranh, đàn bà và đàn ông bằng thi chất rất thực và đau đáu nỗi niềm của mình. Những câu thơ như cứa vào gan ruột, khiến ta ngẫm ngợi, xót xa và cảnh tỉnh! Một giọng thơ hiếm dám nói thật !...”

Nhà văn PHẠM ĐÌNH TRỌNG

“… Vì mối quan tâm là số phận cả dân tộc, Chiến tranh - Chín khúc tưởng niệm không có nhân vật cụ thể mà chỉ có hai nhân vật ước lệ: Người đàn ông ra trận và người đàn bà ở lại làng quê. Hai nhân vật ấy như hai cá thể ước lệ cho thủy tổ loài người, ông Ađam và bà Evơ, như hai ông bà ước lệ cho tổ tiên dân tộc Việt Nam, ông Lạc Long Quân và bà Âu Cơ. Những tâm trạng sâu kín, những tình cảnh quẫn bách được nhắc đến trong trường ca là cuộc sống không bình thường, trái tự nhiên mà người đàn ông và đàn bà ước lệ phải chịu đựng do họ phải sống thiếu nhau vì chiến tranh…”

Nhà văn TRIỆU XUÂN

“… Tếp tục mạch thơ hiện thực trong những tập thơ trước của mình, nay nhà thơ Nguyễn Thái Sơn thông qua trường ca Chiến tranh, Chín khúc tưởng niệm, đi sâu vào thân phận, tâm nguyện của những người lính, và người vợ, người yêu, những người thân, gia đình của họ ở hậu phương. Chín khúc trong trường ca này nói về mảng hiện thực xưa nay ai cũng biết, cũng thấm, nhưng ngại nói trong thơ. Tác giả viết về những điều sâu kín, nhạy cảm ấy bằng cả tấm lòng yêu thương, cảm phục, trân trọng, biết ơn sự hy sinh to lớn của biết bao con người ở tiến tuyến và ở hậu phương…”
--------------
Ảnh do Blo danmuoc lồng vào bài 

Nhà văn Phạm Đình Trọng

Sự Thức Tỉnh muộn màng

http://www.talawas.org/?p=18774

 

 VIẾT VỀ cuộc chiến tranh đã lùi xa hơn ba mươi năm đòi hỏi phải có cái nhìn công bằng, khách quan, lí trí, thoát khỏi thân phận công cụ tuyên truyền. Nhà thơ Nguyễn Thái Sơn đã có được cái nhìn đó trong trường ca Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm, tập trường ca vừa được Nhà xuất bản Văn Học phát hành cuối năm 2009.
Những năm sáu mươi, bảy mươi thế kỉ hai mươi, hầu hết đàn ông Việt Nam đã trưởng thành đều mặc áo lính của cả hai bên chiến tuyến, đều là lính của hai đội quân đang đối đầu tiêu diệt nhau, lính quân đội Việt Nam Cộng hòa và lính quân đội Nhân dân Việt Nam khi còn ở miền Bắc, lính quân giải phóng khi vào chiến đấu ở miền Nam. Không là lính, họ là đồng bào, nhiều người còn là họ hàng, anh em ruột thịt. Nhưng chiến tranh hút họ vào lính, đẩy họ thành kẻ thù đối kháng của nhau: Bộ đội nghĩa vụ quân sự / Chọi nhau với lính quân dịch Cộng hòa!
   Họ đều là bầu bạn thân thiết cùng thế hệ với tôi và tôi đã đọc đầy đủ trường ca của họ viết về cuộc chiến tranh mà chúng tôi là người lính ngoài mặt trận. Phải đến trường ca Chiến tranh - Chín khúc tưởng niệm thì cuộc chiến tranh vẫn được gọi là chống Mĩ cứu nước mới được nhận ra bản chất thực là cuộc nội chiến tương tàn, là bi kịch lớn của dân tộc Việt Nam, là sự tái diễn thảm cảnh đau thương người Việt giết người Việt đã từng xảy ra ở thời những vương triều suy vong: Lính họ Trịnh Đàng Ngoài / Đánh lính họ Nguyễn Đàng Trong / Lính Tây Sơn Nguyễn Huệ / Chém giết lính Nguyễn Ánh Gia Long. Thời công nghiệp, điện tử, chiến tranh không còn chỉ là động tác của cơ bắp chém, đánh như thời Trịnh, Nguyễn, thời Tây Sơn nữa mà là ấn  nút, nhấn cò, động tác nhẹ nhàng cuối cùng sau chuỗi những thu nạp dữ liệu, phân tích, tính toán điện tử:Lọat hỏa tiễn rời bệ phóng / Nổ tung trong căn hầm bên trại giặc chen chúc người. Hiệu quả hủy diệt, chết chóc của động tác nhẹ nhàng ấn nút ấy không còn tính bằng hàng đơn vị mà phải tính  bằng hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn: Người Việt miền Bắc / Người Việt miền Nam / Mỗi ngày / Bao nhiêu bom đạn / Mấy ngàn người chết!
Trước đó, trường ca viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo… mới soi rọi vào góc khuất trong đời sống tâm hồn tình cảm của người lính, người mẹ, người vợ, mới khám phá những hoàn cảnh nghiệt ngã, những  tâm thế chênh vênh của con người cá thể trong xoáy lốc chiến tranh: Vắng anh, chị bị thừa ra / Trong giỗ tết họ hàng nội ngọai(Hữu Thỉnh. Trường ca Đường tới thành phố). Thử thách với người chồng ngoài mặt trận là bom đạn, còn thử thách với người vợ ở quê lại chính là nhan sắc của chị: Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy / Cứ sợ đắm vì chị còn nhan sắc! (Hữu Thỉnh. Trường ca Đường tới thành phố). Trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh mang rõ dấu ấn của ngòi bút tài hoa và bộc lộ tấm lòng hồn hậu nhân văn của người viết và sự hồn hậu 
nhân văn ấy dành cho những thân phận cá thể. 
   Vì mối quan tâm là số phận cả dân tộc, Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm không có nhân vật cụ thể mà chỉ có hai nhân vật ước lệ: Người đàn ông ra trận và người đàn bà ở lại làng quê. Hai nhân vật ấy như hai cá thể ước lệ cho thủy tổ loài người, ông Adam và bà Eva, như hai ông bà ước lệ cho tổ tiên dân tộc Việt Nam, ông Lạc Long Quân và bà Âu Cơ. Những tâm trạng sâu kín, những tình cảnh quẫn bách được nhắc đến trong trường ca là cuộc sống không bình thường, trái tự nhiên mà người đàn ông và đàn bà ước lệ phải chịu đựng do họ phải sống thiếu nhau vì chiến tranh. Người đàn ông ngoài mặt trận không phải chỉ khổ vì nằm gai nếm mật, sốt rét, bom đạn mà còn khổ vì: Chúng tôi / Những người lính đàn ông con trai / Mười chín, ba mươi tuổi /… Chúng tôi không e ngại bất kể điều gì / Chỉ khổ vì dư thừa năng lực đàn ông! Nỗi khổ của người đàn bà ở làng quê vắng bóng đàn ông càng âm ỉ thiêu đốt: Những người đàn bà khao khát tình yêu / Da thịt có gai, có lửa /… Những người đàn bà sung mãn / Đêm uống “nước sông” / Ngày ăn “cơm nhạt”! Khao khát mà chỉ có “nước lã”, “cơm nhạt”, chỉ có cuộc sống chay tịnh! Họ phải khỏa lấp sự trống vắng, thiếu thốn, xả nỗi khát khao vào những công việc bất thường, nặng nhọc: Gánh nước nửa đêm tưới đầm vườn nhãn / Xay vài thúng thóc /Giã nửa nong ngô! Bom đạn khốc liệt! Cái chết đến từng phút từng giây: Không ai từ cõi sinh chìm vào cõi tử / Dễ như người lính / Nhanh như người lính / Nhiều như người lính / Đương nhiên, mặc nhiên, tất nhiên, hồn nhiên như người lính!Chết chóc như thế nên người đàn ông trở thành hồn ma cũng là lẽ đương nhiên: Chúng tôi sống bình thường rồi chết / Chưa xấu cũng chưa kịp tốt / Không thành ma quỉ, chẳng hóa thánh thần / Không phải xuống địa ngục / Không được lên Thiên Đàng / Tụ tán trên tàn cây ngọn cỏ / Ẩn trong giọt sương, tiêu dao trên ngọn sóng!