Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

CHIẾN TRANH - CHÍN KHÚC TƯỞNG NIỆM. Khúc thứ Chín: Ngũ cung

Khúc thứ Chín
NGŨ CUNG

“...Mua mớ cá lẹp
bán mủng khoai lang
mẹ ta chị ta đắn đo
                            mặc cả
                           trả giá
thêm bớt từng xu từng hào
không muốn mua rẻ
chẳng nỡ bán cao

huống gì
              Cái Giá ấy
                              tính bằng
                                            Xương
                                                     Máu…”




BẢN ĐỒ QUÂN SỰ

Đo đạc từ trên tàu vũ trụ
quan sát bằng máy bay
người ta lập bản đồ quân sự trên mây

Hành Tinh lọt thỏm trong tờ giấy
cả quốc gia trải gọn trên bàn
một nửa đất nước nằm trong “bảng tính sẵn” pháo binh
trong xà cột sĩ quan chỉ huy tác chiến

bom rải thảm theo toạ độ trên bản đồ quân sự
quân lính tiến đánh theo bản đồ quân sự
tướng tá dí ngón tay dáng nắm đấm
                                 chọc đầu gậy
                                           xoáy mũi dao găm
                                                      rách bản đồ quân sự
những mệnh lệnh quyết định sự sống chết của cả ngàn người
trên giấy lệch một ly
ngoài mặt trận lấp bằng sinh mạng lính

trước khi quân sĩ hai bên đổ máu
tướng lĩnh đổ mực trên bản đồ
nhỏ mồ hôi trên bản đồ
giết nhau trên giấy… 

NGHĨA ĐỊA KHÔNG MỒ

Mua mớ cá lẹp
bán mủng khoai lang
mẹ ta chị ta bần thần đắn đo
mặc cả
          trả giá
                   thêm bớt từng xu từng hào
huống gì
cái giá ây tính bằng xương máu…”

Quảng Trị
người nước ngoài gọi là bãi tha ma không có mộ bia
là nghĩa địa ngầm
nhà sư thắp hương
lẩm nhẩm khấn những người nằm dưới nấm mồ chung khổng lồ vô định
có bao điều còn chìm nghỉm trong thẳm sâu bí mật

- sự thật
dù không được thừa nhận
vẫn cứ là sự thật !

đất Quảng Tri nặng nhất Hành Tinh
có độ mặn hàng đầu Trái Đất
màu mỡ nhất Địa Cầu

óng mượt cỏ xanh
xanh đến đáng ngờ 
cây gì mọc nơi đây cũng lớn nhanh vùn vụt
mẫu đơn đỏ rực - đỏ quặn gan thắt ruột
tôm nuôi - sạch ao
mía trồng - dịu đất
hiếm người mua
chẳng mấy ai ăn

những sinh viên đại học tuổi mười chín hai mươi
tay chân đang dài thịt xương còn lớn
khi chết
thân không vẩy rượu, xác không lèn lá thuốc trà khô
không sô trắng trùm đầu không vải dày khâm liệm
huyệt mộ rải khắp rừng
                          chôn “chay” không hòm ván
bốn chục năm mưa dầm nắng hạn còn gì nữa đâu !

cuốc bổ
            xẻng xúc
                       mai đào
tìm được cốt người này xương người kia vụn nát
những đám tóc non tơ đen nhánh
không thể mục nát không bao giờ bạc
vướng rễ cây
                quấn lưỡi xẻng
                                      đau nhức mắt nhìn

Linh Hồn quẩn quanh không thể bỏ đi
xương cốt chưa gặp Người Tìm hồn phách còn thất lạc
không đầu thai
chẳng thể luân hồi

nhà cửa mọc lên thành phố thành làng
tiệm rượu vũ trường sân gôn phòng cưới…
chẳng ai biết có di cốt di hài lấp vùi phía dưới

liệt sĩ tử sĩ
trai phố măng tơ trai làng mới lớn
chưa kịp yêu không thất tình phiền muộn
linh hồn thiên sứ thể xác thiên thần
không thể biết
làm sao tránh được
nhà tắm xây phía trên
giường cưới đặt ở trên !...

RAU RĂM

Đàn ông đàn bà đủ vợ đủ chồng đang thì vừa độ
rau răm thơm bùi đến mấy cũng đành kiêng cữ
búp ổi lá gừng trộn dồi lợn tiết canh

không nêm rau răm
canh hến nhạt mùi, cháo lươn đoảng vị
thím tôi goá bụa dì tôi vắng chồng
lại coi rau răm là bạn bầu tri kỉ (1)

xiêu vẹo chùa làng
cối đá lỗ nén ngập vại cà
chum tương úp rổ tre, tựa gốc cau hong nắng
vạt rau răm xanh um thẻo đất khuất nẻo sau chùa…

ngày chồng từ mặt trận chống nạng trở về
nhiều người vợ lăn mình đè nát luống rau
khóc nức nở lại cười khanh khách
đào bật gốc loài rau tình nghĩa:
- hãy lặn xuống vực hãy bay lên trời
đừng ở lại chịu cay đắng nữa!

bao người đàn bà có chồng chết trận
không thể đoạn tuyệt với thứ rau này
ăn ghém rau răm đến lúc mãn kinh
lòng lạnh giá không ham muốn nữa 

sau chiến tranh
có bữa cơm no có tấm áo lành
những người vợ góa càng khát thèm ân ái
thân thể quanh năm chay tịnh
săm săm vào chùa xụp lạy Đức Quán Thế Âm
nửa đêm xõa tóc ra miếu Thổ Thần
không như người có chồng nặng hơi hướng đàn ông
nấu nước lá thơm tắm gội kĩ càng
vào miếu cúng Thần lên chùa lễ Phật

sau chiến tranh đàn ông thêm “khan” càng “đắt”
đàn ông được quyền chọn lựa
- phần thưởng của thiếu nữ tặng vật của đàn bà

nhiều người phụ nữ chùng chình đi sớm về khuya
tha thẩn đường thưa bãi vắng
ra đồng tát nước nhổ cỏ giữa đêm
khép cửa hờ khi ngủ…

những người đàn bà mặn mòi
đa tình tựa Thị Mầu
không xấu như Thị Nở
vẫn ao ước gặp được Chí Phèo

sau chiến tranh
gần một nửa đàn bà goá chồng
nhiều hơn thế không được làm cô dâu
chẳng đếm được những người bạc tóc vẫn là trinh nữ!

đắng lưỡi xót lòng
che mưa dập lửa
mắt lá răm đa tình
                     mấy thời đẫm lệ
                                  một đời chưa khô…
--------------
(1) Rau răm: rau gia vị, có tác dụng làm giảm nhu cầu tình dục.

KHÚC NGÂM CỦA NGƯỜI MẸ CÓ CON CHẾT TRẬN

Con thơ dại đá dầy chân mỏng
sài đẹn đêm sốt nóng cả ngày
chàm mặt mũi ghẻ chân tay
thương con mưa lạnh nắng say gầy gò

sáu bảy tuổi chăn bò lùa vịt
vài năm sau xúc tép giăng câu
mười lăm tuổi đã theo trâu
dầm chân ruộng cạn đồng sâu cày bừa…

đất cằn cỗi mới mưa đã ngập
nắng nẻ đồng lúa thấp cỏ cao
được mùa ngan ngỗng phổng phao
mất mùa đói kém vêu vao cả làng

chân con dẫm mảnh gang lọ vỡ
tay xóc vào thớ gỗ dằm tre
đứt tay róc mía gọt me
lạc kim vụng kéo đỏ nhoè máu loang

bà quýnh quáng thắp nhang khấn vái
mẹ dứt bông cắn vải xé khăn
xuýt xoa chị buộc em chằng
chân tay nào phải tre măng ngoài đường

suốt mấy bữa ông thương bà xót
đau tay con mà buốt lòng cha
gai đâm dao cứa thịt da
máu là máu
              máu không là nước ao!

nào chỉ có gai cào dao gọt
đâu phải là mấy giọt máu rơi
con tôi
con của bao người
bom xé ngực
đạn tiện rời chân tay

máu đọng vũng đầm cây đẫm cỏ
máu tuôn trào sũng đỏ bông băng
chưa thành tre mới qua măng
lưỡi hái Thần Chết xén phăng một đời…

vết thương ấy nhiều người qua khỏi
- ba bốn mươi, cứng cỏi đàn ông,
- đã từng dày dạn tây đông,
- đã từng vượt núi băng sông, trải đời…

con ta, con bao người mẹ khác
mới ra ràng ngác ngác ngây ngây
đớn đau xám ngoét mặt mày
chịu sao nổi nỗi đau này
con đi…

đất màu mỡ xanh rì cây trái
lim sến hay cỏ dại - khác chi
lá non gió dữ cuốn đi
lá già run rẩy
còn gì rừng xanh !…

TẠ ƠN

1
Đói quay quắt
cả đơn vị không ngủ được
nửa đêm anh bị trung đội trưởng bợp tai
bắt ra nương nhổ trộm khoai

loạt bom tấn trùm lên trận địa
hai mươi tư người lính không toàn thi thể
đốt cành khô thay nhang
luộc khoai mì làm đồ cúng lễ
giá mọi người trong đơn vị
đều cùng anh ra đồi!

2
Người trước ngã người sau ngã
đồng đội bên phải nát ngực, bên trái đứt chân
cả tiểu đội trúng đạn thân vắt thành cầu
chỉ anh tôi may mắn vượt qua lưới lửa

xe tăng địch trúng đạn lao xuống khe sâu
thằng lính Mỹ ngờ nghệch trẻ măng
đường ngắm lệch nửa li
viên đạn khoan thủng vành tai anh
                            - cũng trẻ măng ngờ nghệch…

ba chục năm sau chiến tranh
sách anh viết cao ngang nòng súng
chục ngàn trang tiểu thuyết
thơ ngót vạn câu…

3
Tạ ơn đồng đội che bom chắn đạn !
tạ ơn người đội trưởng
nửa đêm bắt anh ra nương nhổ trộm khoai mì !

ơi cái thằng lính Mỹ ngây ngô “gà công nghiệp”
bắn anh tao thủng vành tai
cầu mong suốt đời mày đừng giết ai
cũng đừng bị giết !

                                                       HẾT

Nhà Sáng tác Đại Lải, 11/2007,
Nhà Sáng tác Vũng Tàu, 11/2008. Sàigòn, 12/2008.



      NGUYỄN THÁI SƠN:
Tên thật, cũng là bút danh chính, sinh ngày 17/10/1948 tại Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Tháng 9/1965 đi lính từ Khoa Văn - Đại học Tổng hợp Hà Nội. Lái xe vận tải quân sự tại Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn, bị thương gẫy tay ở Lào, về nước điều trị,
đi học, tháng 12/1972 tốt nghiệp Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, sáu năm sau tốt nghiệp Khoa Văn hóa Quần chúng (chuyên về âm nhạc) - Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Từng là Chính trị viên đại đội pháo mặt đất, trợ lý Tuyên huấn cấp quân đoàn, tổng cục, phóng viên….Ngày 23/2/1979 bị trọng thương tại Lạng Sơn, bỏ dở Khóa I Đại học Viết văn Nguyễn Du, năm 1980 chuyển nghành lần thứ nhất về Công ty Xây lắp Hoá chất miền Nam, tháng 4/1984 trở lại quân đội, tháng 8/1989 chuyển nghành lần thứ hai về Tạp chí Văn, Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh….
Nguyên  Trưởng Chi nhánh Nhà Xuất bản Lao Động tại phía Nam, Chủ bút Bán nguyệt san Thế giới Trẻ, Thư ký Tòa soạn Tạp chí Văn Nghệ Công nhân…
Hiện  sống ở Quận Mười,  Sài Gòn. (email: nguyenthaison1710@gmail.com, ĐT: 0903 185 401)
Các tập thơ riêng đã xuất bản:
Muộn (1988), Đi tìm (1992, khôngg phát hành), Vé khứ hồi (1995), Tên rơi trước mặt (2007), Chiến tranh - Chín khúc Tưởng niệm (Trường ca, 2009).
Các tập Thơ  đã hoàn tất Bản thảo, chưa xuất bản: 1/Không chỉ vì một màu cờ, 2/ Vạn tuế, Muôn năm và…, 3/ Tặc Quan, 4/ Bào chữa cho Thần Chết (Trường ca).
Giải thưởng Văn học:
1/ Giải Ba (không có giải Nhất) cuộc thi Thơ năm 1965 của Báo Văn Nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam, và cho đến nay vẫn là người duy nhất được Giải thưởng Thơ của Báo Văn Nghệ khi còn là học sinh phổ thông - lớp 10/10, Trường cấp Ba Bình Lục - Hà Nam. (Báo Hà Nội Mới số 21, thứ Bảy, 31/5/2008, tại trang 12 có bài “Người đáng được vào Guiness”, tác giả Hà Nhân đã viết “…Nguyễn Thái Sơn là người trẻ tuổi nhất của nước ta từ trước đến nay đoạt giải thưởng thơ của Tuần báo Văn Nghệ và rất đáng được vào Guiness Việt Nam. Ngay từ khi còn học cấp ba, Nguyễn Thái Sơn đã thành danh rồi.”)
2/ Giải Ba cuộc thi Thơ 1989 - 1990 cũng của báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn VN
3/ Giải thưởng chùm thơ hay năm 1974 của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
4/ Giải thưởng chùm thơ hay năm 2002 của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét